Ngày 02/07/2004 Bộ Tài nguyên và môi trường đă ban hành Công văn số 2162/BTNMT-ĐĐ về việc thi hành Luật Đất đai năm 2003 trong thời gian chưa có các Nghị định hướng dẫn thi hành. |
Theo quy định của văn bản này, Từ ngày 01/7/2004, tất cả các quy định của Luật Đất đai năm 2003 mà trong Luật không giao cho Chính phủ quy định cụ thể hoặc hướng dẫn thi hành, th́ được thi hành theo quy định của Luật. Lưu ư một số trường hợp cụ thể sau: - Thẩm quyền giao đất, cho thuê đất, cho phép chuyển mục đích sử dụng đất, thu hồi đất, cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, giải quyết tranh chấp đất đai, giải quyết khiếu nại về đất đai được thực hiện theo thẩm quyền quy định c
911;a Luật Đất đai năm 2003. Tŕnh tự, thủ tục theo các quy định hiện hành. Đối với những trường hợp đă tiếp nhận hồ sơ trước ngày 01/7/2004 th́ cơ quan tiếp nhận hồ sơ tiếp tục giải quyết theo thẩm quyền quy định tại Luật Đất đai năm 1993, Luật sửa đổi bổ sung một số điều của Luật Đất đai năm 1998, Luật sửa đổi bổ sung một số điều của Luật Đất đai năm 2001. - Người sử dụng đất thực hiện các quyền và nghĩa vụ theo quy định của Luật đất đai năm 2003. Tŕnh tự, thủ tục
theo các quy định hiện hành. Đối với trường hợp thực hiện quyền tặng cho th́ tŕnh tự, thủ tục được thực hiện như đối với thực hiện quyền thừa kế. - Thực hiện phân loại đất theo quy định của Luật Đất đai năm 2003. Đối với đất sử dụng vào mục đích sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp ở khu vực nông thôn mà chưa thuộc loại được quy định tại Điều 13 của Luật Đất đai năm 2003 th́ đưa vào loại đất nông nghiệp khác; đất sử dụng vào mục đích phi nông nghiệp mà chưa thuộc loại được quy đ
7883;nh tại Điều 13 của Luật Đất đai năm 2003 th́ đưa vào loại đất phi nông nghiệp khác; đất xây dựng các công tŕnh sử dụng vào mục đích công cộng chưa quy định tại Điều 13 của Luật Đất đai năm 2003 th́ đưa vào đất xây dựng các công tŕnh công cộng khác.
- Lập, điều chỉnh, xét duyệt, công bố và thực hiện quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất được thực hiện theo quy định của Luật Đất đai năm 2003, trừ trường hợp đối với đất quốc pḥng, an ninh sẽ có hướng dẫn sau. - Đốt tượng được Nhà nước giao đất, cho thuê đất, cho phép chuyển mục đích sử dụng đất, đăng kư chuyển mục đích sử dụng đất được thực hiện theo quy định của Luật Đất đai năm 2003. - Việc thu hồi đất, quản lư quỹ đất đă thu hồi sau khi quy hoạch, kế hoạch s̗
7; dụng đất được công bố được thực hiện theo quy định của Luật Đất đai năm 2003. - Uỷ ban nhân dân các cấp, cơ quan tài nguyên và môi trường các cấp, cán bộ địa chính xă, phường, thị trấn thực hiện đúng quyền hạn, trách nhiệm đối với việc phát hiện, ngăn chặn và xử lư các hành vi vi phạm pháp luật về đất đai theo quy định của Luật Đất đai năm 2003. ….
|
Ngày 07/02/2004 Bộ Tài chính đă ban hành Công văn số 7333/TC/TCT thuế thu nhập doanh nghiệp và thu nhập cá nhân đối với ODA không hoàn lại. |
Theo văn bản này, các nhà thầu nước ngoài tham gia thực hiện dự án viện trợ không ḥan lại được miễn thuế TNDN đối với thu nhập từ việc cung cấp hàng hóa, dịch vụ cho dự án viện trợ không hoàn lại trên cơ sở hợp đồng kư với chủ dự án. Các cá nhân người nước ngoài được miễn thuế thu nhập cá nhân đối với thu nhập do làm việc cho nhà thầu nước ngoài tham gia thực hiện dự án ODA viện trợ không hoàn lại. Việc miễn thuế TNDN và thuế TNCN nêu tại điểm 1, điểm 2 nêu trên phải được qui định tại Hiệp định về việc viện
trợ không hoàn lại. Căn cứ điều kiện, tính chất, đặc điểm của từng dự án ODA viện trợ không hoàn lại và yêu cầu của nhà tài trợ, cơ quan kư hiệp định lấy ư kiến của Bộ Tài chính và báo cáo Thủ tướng Chính phủ về việc miễn thuế TNDN và miễn thuế TNCN cho nhà thầu và cá nhân nước ngoài trước khi kư Hiệp định.
Nhà thầu, cá nhân nước ngoài tham gia thực hiện dự án viện trợ không hoàn lại thực hiện nghĩa vụ thuế theo qui định của pháp luật về thuế hiện hành và Hiệp định tránh đánh thuế hai lần đă kư với các nước nếu tại Hiệp định về việc viện trợ không hoàn lại không có qui định về việc miễn thuế.
|
Ngày 15/06/2004 Quốc hội đă ban hành Bộ luật số 24/2004/QH11 ban hành Bộ Luật Tố tụng Dân sự. |
Ngày 15/6/2004, Quốc hội đă thông qua Bộ Luật Tố tụng Dân sự số 24/2004/QH11, gồm 9 phần, 36 chương và 418 điều. Một trong những điểm mới căn bản của bộ luật này là, VKS không có quyền khởi tố vụ án dân sự để tập trung thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp. Việc quy định như vậy cũng giúp xác định tư cách tố tụng của VKS trong vụ án (là nguyên đơn hay là cơ quan tiến hành tố tụng thực hiện kiểm sát việc xét xử) rơ ràng hơn. Trong trường hợp đương sự không thể tự ḿnh thu thập được chứng cứ và có yêu cN
47;u th́ ṭa án có thể tiến hành một hoặc một số biện pháp để thu thập chứng cứ. Ṭa án phải chịu trách nhiệm bồi thường do việc áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời không đúng gây thiệt hại cho người bị áp dụng Bộ luật quy định: VKSND kiểm sát việc tuân thủ pháp luật trong tố tụng dân sự nhằm bảo đảm việc giải quyết vụ việc dân sự kịp thời, đúng pháp luật. VKSND tham gia phiên ṭa đối với những vụ án do ṭa án thu thập chứng cứ mà đương sự có khiếu nại, các việc dân sự thuộc thẩm quyền giải quyết của ṭa án, các vụ án mà VKS kháng nghị
bản án, quyết định của ṭa án... VKS không có quyền khởi tố vụ án dân sự bởi hai lư do. Thứ nhất, trước đây khi thực hiện kiểm sát việc tuân thủ pháp luật trong lĩnh vực hành chính, kinh tế, xă hội, khi phát hiện có vi phạm pháp luật gây thiệt hại đến lợi ích Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân th́ VKS được quyền khởi tố vụ án. Hiện nay, theo quy định của Hiến pháp và Luật tổ chức VKSND th́ VKS không thực hiện chức năng kiểm sát việc tuân thủ theo pháp luật để tập trung thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp. Thứ hai, nếu VKS khởi t̔
9; vụ án dân sự th́ việc xác định tư cách tố tụng của VKS trong vụ án (là nguyên đơn hay là cơ quan tiến hành tố tụng thực hiện kiểm sát việc xét xử) không rơ ràng… Trong trường hợp đương sự không thể tự ḿnh thu thập được chứng cứ và có yêu cầu th́ ṭa án có thể tiến hành một hoặc một số biện pháp để thu thập chứng cứ… Ṭa án phải chịu trách nhiệm bồi thường do việc áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời không đúng gây thiệt hại cho người bị áp dụng… Bộ luật có hiệu lực kể từ ngày 01/01/2005.
|
Ngày 15/06/2004 Quốc hội đă ban hành Luật số 20/2004/QH11 sửa đổi bổ sung một số điều của Luật tổ chức tín dụng. |
Một trong những điểm sửa đổi cơ bản của luật sửa đổi bổ sung luật tổ chức tín dụng lần này là: Thành lập công ty trực thuộc có tư cách pháp nhân, hạch toán độc lập bằng vốn tự có để hoạt động trên một số lĩnh vực tài chính, ngân hàng, bảo hiểm và quản lư, khai thác, bán tài sản trong quá tŕnh xử lư tài sản bảo đảm tiền vay và tài sản mà Nhà nước giao cho các tổ chức tín dụng xử lư thu hồi nợ; Thành lập các đơn vị sự nghiệp sau khi được Ngân hàng Nhà nước chấp thuận bằng văn bản… Tổ chức tín dụng chủ động t́m kiế
;m các dự án sản xuất, kinh doanh khả thi, có hiệu quả và có khả năng hoàn trả nợ để cho vay. Tổ chức tín dụng có quyền xem xét, quyết định cho vay trên cơ sở có bảo đảm hoặc không có bảo đảm bằng tài sản cầm cố, thế chấp của khách hàng vay, bảo lănh của bên thứ ba và chịu trách nhiệm về quyết định của ḿnh. Tổ chức tín dụng không được cho vay trên cơ sở cầm cố bằng cổ phiếu của chính tổ chức tín dụng cho vay. Tổ chức tín dụng xem xét, quyết định việc cho vay có bảo đảm bằng tài sản h́nh thành từ vốn vay. Tổ chức tín dụng nhà nước
273;ược cho vay không có bảo đảm theo chỉ định của Chính phủ. Tổn thất do nguyên nhân khách quan của các khoản cho vay này được Chính phủ xử lư.
|
Ngày 15/06/2004 Quốc hội đă ban hành Luật số 21/2004/QH11 sửa đổi bổ sung Luật Phá sản. |
Luật Phá sản số 21/2004/QH11được Quốc hội thông qua ngày 15/6/2004 gồm 9 chương 95 điều. Luật này quy định điều kiện và việc nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản; xác định nghĩa vụ về tài sản và các biện pháp bảo toàn tài sản trong thủ tục phá sản; điều kiện, thủ tục phục hồi hoạt động kinh doanh, thủ tục thanh lư tài sản và tuyên bố phá sản; quyền, nghĩa vụ và trách nhiệm của người nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản, của doanh nghiệp, hợp tác xă bị yêu cầu tuyên bố phá sản và của người tham gia giải quyết yêu cầ
u tuyên bố phá sản. Luật này áp dụng đối với doanh nghiệp, hợp tác xă, liên hiệp hợp tác xă (hợp tác xă, liên hiệp hợp tác xă gọi chung là hợp tác xă) được thành lập và hoạt động theo quy định của pháp luật. Doanh nghiệp, hợp tác xă lâm vào t́nh trạng phá sản là những doanh nghiệp hợp tác xă không có khả năng thanh toán được các khoản nợ đến hạn khi chủ nợ có yêu cầu th́ coi là lâm vào t́nh trạng phá sản. Theo văn bản này, khi nhận thấy doanh nghiệp, hợp tác xă lâm vào t́nh trạng phá sản th́ các chủ nợ không có bảo đảm, có bảo đảm một phần, người lao động không được trả l+
2;ơng và các khoản nợ khác (thông qua đại diện của ḿnh) đều có quyền nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản đối với doanh nghiệp, hợp tác xă đó. Khi nhận thấy doanh nghiệp nhà nước lâm vào t́nh trạng phá sản mà doanh nghiệp không thực hiện nghĩa vụ nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản th́ đại diện chủ sở hữu của doanh nghiệp có quyền nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản đối với doanh nghiệp đó. Khi nhận thấy công ty cổ phần lâm vào t́nh trạng phá sản th́ cổ đông hoặc nhóm cổ đông có quyền nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sả
;n theo quy định của điều lệ công ty; nếu điều lệ công ty không quy định th́ việc nộp đơn được thực hiện theo nghị quyết của đại hội cổ đông. Trường hợp điều lệ công ty không quy định mà không tiến hành được đại hội cổ đông th́ cổ đông hoặc nhóm cổ đông sở hữu trên 20% số cổ phần phổ thông trong thời gian liên tục ít nhất 6 tháng có quyền nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản đối với công ty cổ phần đó… Sau khi nhận được quyết định mở thủ tục phá sản, các hoạt động sau đây của doanh nghiệp
, hợp tác xă phải được sự đồng ư bằng văn bản của Thẩm phán trước khi thực hiện: cầm cố, thế chấp, chuyển nhượng, bán, tặng cho, cho thuê tài sản; nhận tài sản từ một hợp đồng chuyển nhượng; chấm dứt thực hiện hợp đồng đă có hiệu lực… Luật có hiệu lực kể từ ngày 15/10/2004, thay thế Luật Phá sản doanh nghiệp ban hành năm 1993.
|
Ngày 15/06/2004 Quốc hội đă ban hành Luật số 22/2004/QH11 ban hành Luật Thanh tra. |
Quốc hội đă ban hành Luật Thanh tra số 22/2004/QH11 ngày 15/6/2004. Theo quy định của văn bản này, Thanh tra nhà nước và thanh tra nhân dân có quyền tiến hành thanh tra việc thực hiện chính sách, pháp luật, nhiệm vụ của cơ quan, tổ chức, cá nhân thuộc thẩm quyền quản lư của cơ quan quản lư nhà nước cùng cấp. Ban thanh tra nhân dân giám sát việc thực hiện chính sách, pháp luật, việc giải quyết khiếu nại, tố cáo, việc thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở của cơ quan, tổ chức, cá nhân có trách nhiệm ở xă, phường, thị trấn, cơ quan nhà nước, đơn vị sự nghiệp, doanh nghiệp nhà nư&
#7899;c. Hoạt động thanh tra phải tuân theo pháp luật; bảo đảm chính xác, khách quan, trung thực, công khai, dân chủ, kịp thời; không làm cản trở hoạt động b́nh thường của cơ quan, tổ chức, cá nhân là đối tượng thanh tra. Luật sửa đổi bổ sung lần này quy định chi tiết hơn về nghĩa vụ, quyền hạn của các thanh tra viên, phân cấp phân cụ thể hơn trong ngành thanh tra. Theo đó, cơ quan thanh tra nhà nước tiến hành thanh tra việc thực hiện chính sách, pháp luật, nhiệm vụ của cơ quan, tổ chức, cá nhân thuộc thẩm quyền quản lư của cơ quan quản lư nhà nước cùng cấp. Ban thanh tra nhân dân giám sát
việc thực hiện chính sách, pháp luật, việc giải quyết khiếu nại, tố cáo, việc thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở của cơ quan, tổ chức, cá nhân có trách nhiệm ở xă, phường, thị trấn, cơ quan nhà nước, đơn vị sự nghiệp, doanh nghiệp nhà nước… Hoạt động thanh tra nhằm pḥng ngừa, phát hiện và xử lư các hành vi vi phạm pháp luật; phát hiện những sơ hở trong cơ chế quản lư, chính sách, pháp luật để kiến nghị với cơ quan nhà nước có thẩm quyền các biện pháp khắc phục; phát huy nhân tố tích cực; góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả của hoạt động quản
lư nhà nước; bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân… Bên cạnh đó, Luật cũng quy định cụ thể nhiệm vụ, quyền hạn, cơ cấu của cơ quan thanh tra các cấp, ngành, lĩnh vực, thanh tra viên… Luật Thanh tra có hiệu lực kể từ ngày 01/10/2004, thay thế Pháp lệnh Thanh tra ban hành năm 1990.
|
Ngày 15/06/2004 Quốc hội đă ban hành Luật số 23/2004/QH11 ban hành Luật Giao thông đường thuỷ nội địa. |
Luật gồm 9 chương, 103 điều. Luật này quy định về hoạt động giao thông đường thủy nội địa; các điều kiện bảo đảm an toàn giao thông đường thuỷ nội địa đối với kết cấu hạ tầng, phương tiện và người tham gia giao thông, vận tải đường thuỷ nội địa. Hoạt động giao thông đường thuỷ nội địa phải bảo đảm thông suốt, trật tự, an toàn cho người, phương tiện, tài sản và bảo vệ môi trường; phục vụ phát triển kinh tế - xă hội và góp phần bảo đảm quốc pḥng, an ninh, bảo v̓
9; chủ quyền và lợi ích quốc gia. Bảo đảm trật tự, an toàn giao thông đường thuỷ nội địa là trách nhiệm của toàn xă hội, của chính quyền các cấp, của tổ chức, cá nhân quản lư hoặc trực tiếp tham gia giao thông; thực hiện đồng bộ các giải pháp về kỹ thuật, an toàn của phương tiện, kết cấu hạ tầng giao thông đường thuỷ nội địa; đào tạo, nâng cao tŕnh độ chuyên môn, nghiệp vụ; phổ biến, giáo dục ư thức chấp hành pháp luật cho người tham gia giao thông đường thuỷ nội địa; xử lư nghiêm các hành vi vi phạm pháp luật về trật tự, an toàn giao thông đư
ờng thuỷ nội địa theo quy định của pháp luật. Phát triển giao thông đường thuỷ nội địa phải theo quy hoạch, kế hoạch và đồng bộ. Quản lư hoạt động giao thông đường thuỷ nội địa được thực hiện thống nhất trên cơ sở phân công, phân cấp trách nhiệm, quyền hạn rơ ràng, đồng thời có sự phối hợp chặt chẽ giữa các bộ, ngành và chính quyền các cấp. Việc vận tải động vật sống: Tuỳ theo loại động vật sống, người kinh doanh vận tải yêu cầu người thuê vận tải bố trí người áp tải để chăm sóc trong quá tŕnh vậ
;n tải; Người thuê vận tải chịu trách nhiệm về việc xếp, dỡ động vật sống theo hướng dẫn của người kinh doanh vận tải; trường hợp người thuê vận tải không thực hiện được th́ phải trả cước phí xếp, dỡ cho người kinh doanh vận tải; Việc vận tải động vật sống trên đường thuỷ nội địa phải tuân theo quy định của pháp luật về vệ sinh, pḥng dịch, bảo vệ môi trường… Luật này có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 01 năm 2005.
|
Ngày 15/06/2004 Quốc hội đă ban hành Luật số 25/2004/QH11 thông qua Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em. |
Theo Luật Bảo vệ, Chăm sóc và Giáo dục trẻ em số 25/2004/QH11, được Quốc hội thông qua ngày 15/6/2004, lần đầu tiên hệ thống pháp luật nước ta quy định một cách rất cụ thể và đầy đủ về các quyền của trẻ em, phù hợp với pháp luật và thông lệ quốc tế. Cụ thể, Luật quy định trẻ dưới 6 tuổi được chăm sóc sức khỏe ban đầu, được khám, chữa bệnh không phải trả tiền tại các cơ sở y tế công lập và Chính phủ dành hẳn một khoản ngân sách hằng năm để đảm bảo việc này… Nhà nước có chính sách hỗ trợ cho trN
67; em là con em thương binh, liệt sĩ, người có công, trẻ em dân tộc thiểu số, trẻ em của hộ nghèo, trẻ em cư trú ở vùng có điều kiện kinh tế-xă hội khó khăn và đặc biệt khó khăn; có chính sách hỗ trợ gia đ́nh thực hiện trách nhiệm bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em… Bên cạnh đó, Luật có quy định: không được sử dụng cơ sở vật chất dành cho việc học tập, sinh hoạt, vui chơi, giải trí của trẻ em vào mục đích khác làm ảnh hưởng đến lợi ích của trẻ em… So với Luật bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em năm 1991, Luật này dành hẳn một chương đ
ối với trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt, trong đó có bao gồm trẻ em mồ côi không nơi nương tựa, trẻ khuyết tật, bị ảnh hưởng của chất độc hóa học, bị nhiễm HIV/AIDS, trẻ lang thang, trẻ làm trái pháp luật… Các biện pháp hỗ trợ, giáo dục trẻ em được xây dựng trên một tinh thần nhân đạo sâu sắc, huy động mạnh mẽ sức mạnh của toàn Đảng, toàn dân cho thế hệ tương lai của đất nước Luật này có hiệu lực kể từ ngày 01/01/2005.
|
Ngày 15/06/2004 Quốc hội đă ban hành Luật số 26/2004/QH11 thông qua Luật sửa đổi, bổ sung Luật Khiếu nại, Tố cáo. |
Ngày 15/6/2004, Quốc hội đă thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Khiếu nại, Tố cáo số 26/2004/QH11. . Theo đó,Luật sửa đổi và bổ sung thêm thẩm quyền đối với các Bộ trưởng, thủ trưởng cơ quan ngang Bộ và Chủ tịch UBND cấp tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương như sau: xem xét lại quyết định giải quyết khiếu nại cuối cùng có vi phạm pháp luật gây thiệt hại đến lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, cơ quan, tổ chức theo yêu cầu của Tổng thanh tra… Luật cũng quy định Thủ tướ
;ng chính phủ sẽ không là người giải quyết các khiếu nại, tố cáo mà Thủ tướng Chính phủ là người chỉ đạo công tác giải quyết khiếu nai, tố cáo. Cấp giải quyết khiếu nại, tố cáo cuối cùng thuộc thẩm quyền của Tổng Thanh tra Và sửa đổi: người giải quyết khiếu nại lần đầu phải gặp gỡ, đối thoại trực tiếp với người khiếu nại (quy định trước đây: khi cần thiết), người bị khiếu nại để làm rơ nội dung khiếu nại, yêu cầu của người khiếu nại và hướng giải quyết khiếu nại; người giải quyết
khiếu nại lần tiếp theo phải gặp gỡ, đối thoại trực tiếp với người khiếu nại, người bị khiếu nại trong trường hợp cần thiết… Khi người khiếu nại, tố cáo không đồng ư với quyết định giải quyết khiếu nại lần đầu của Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ th́ có quyền khởi kiện vụ án hành chính tại Toà án nhân dân cấp tỉnh và thủ tục tố tụng hành chính bắt đầu thay cho thủ tục hành chính Luật có hiệu lực kể từ ngày 01/10/2004.
|
Ngày 31/05/2004 Bộ Y Tế đă ban hành Thông tư số 07/2004/TT-BYT hướng dẫn việc xuất khẩu, nhập khẩu thuốc và mỹ phẩm ảnh hưởng trực tiếp đến sức khỏe con người đến hết năm 2005. |
Ngày 31/5/2004, Bộ Y tế đă ban hành Thông tư số 07/2004/TT-BYT, hướng dẫn việc xuất khẩu, nhập khẩu thuốc và mỹ phẩm ảnh hưởng trực tiếp đến sức khỏe con người đến hết năm 2005.
Theo Thông tư này, các thuốc thành phẩm nhập khẩu vào Việt Nam phải có hạn dùng c̣n lại khi đến cảng Việt Nam tối thiểu là 18 tháng. Đối với thuốc có hạn dùng bằng hoặc dưới 24 tháng th́ hạn dùng c̣n lại khi đến cảng Việt Nam tối thiểu phải là 12 tháng… Nguyên liệu nhập khẩu để sản xuất thuốc phải c̣n hạn dùng trên 3 năm kể từ ngày đến cảng Việt Nam, đối với nguyên liệu có hạn dùng 3 năm hoặc dưới 3 năm th́ ngày về đến cảng Việt Nam không được quá 6 tháng kể từ ngày sản xuất, quy định này không áp dụng đối với dược liệu… Thông tư này có
hiệu lực kể từ ngày 7/7/2004.
|
|